96 BN (86 nam, 10 nữ), trong đó 55 BN lao mới (nhóm 1) và 41 BN lao tái phát (nhóm 2) đã chẩn đoán xác định lao phổi bằng soi đờm trực tiếp AFB dương tính hoặc PCR dương tính trong dịch rửa phế quản và có tổn thương lao trên phim chụp X quang phổi chuẩn, điều trị lao 8 tháng theo chương trình chống lao Quốc gia. Kết quả: 20% BN sau điều trị khỏi không để lại di chứng trên X quang phổi ở nhóm 1. Ở BN lao mới có diện tích tổn thương hẹp trước điều trị thì sau khi điều trị khỏi để lại 56,5% tổn thương xơ hẹp trên phim chụp cắt lớp vi tính, không gặp di chứng khác. Sau điều trị diện tổn thương xơ mức độ vừa và rộng cũng như các di chứng khác như hang di sót, khí phế thũng cạnh tổn thương xơ, giãn phế quản (GPQ) với tỉ lệ cao ở các nhóm tổn thương rộng (41,6%, 41,6%, 83,3%). Ở nhóm 2 ngày sau điều trị khỏi tỷ lệ có di chứng trên X quang phổi ở nhóm diện tích tổn thương hẹp là 66,7%, vừa và rộng là 100%, sự khác biệt này có ý nghĩa (p< 0,01). Đặc biệt ở nhóm diện tổn thương rộng có hang di sót là 8/25 BN (32%), khí phế thũng cạnh tổn thương xơ là 60% và GPQ tới 76%. GPQ ở cả hai nhóm là 35,4%, trong đó GPQ hình trụ là 76,5%, hình chuỗi hạt là 23,5%, không gặp GPQ hình chùm nho, GPQ mức độ nhẹ và vừa chiếm chủ yếu (97,1%), chỉ có 2,9% GPQ mức độ nặng.