Tóm tắt
Đặt vấn đề: Từ thực trạng về sức khỏe, cơ cấu bệnh của công nhân sản xuất bê tông và sản xuất khuôn thép có liên quan chặt chẽ đến điều kiện môi trường lao động bị ô nhiễm bởi các yếu tố bụi và vi khí hậu. Mục tiêu: Giảm nồng độ bụi xi măng và hàm lượng silic trong bụi thải ra môi trường lao động từ các trạm trộn bê tông và giảm nồng độ bụi hàn, hơi khí độc, khói hàn, stress nhiệt tại xưởng gia công khuôn thép; Nâng cao kiến thức, thực hành về chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh nghề nghiệp, môi trường lao động, các biện pháp vệ sinh an toàn lao động cho công nhân; Nâng cao chất lượng quản lý, theo dõi, chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh ban đầu cho công nhân của phòng y tế công ty. Đối tượng và phương pháp: Điều tra mô tả cắt ngang kết hợp với nghiên cứu hồi cứu và nghiên cứu can thiệp một số điều kiện và môi trường lao động của 600 công nhân sản xuất bê tông ngoài trời và sản xuất khuôn thép trong nhà. Kết quả: Sau quá trình triển khai ứng dụng 3 nhóm giải pháp dự phòng: kỹ thuật, y tế, phòng hộ cá nhân, tác giả nhận thấy hàm lượng bụi toàn phần và bụi hô hấp trung bình của 4 trạm trộn bê tông đã giảm rất nhiều (từ 10,74±1,65 mg/m3 và 4,77±0,63 mg/m3 xuống 1,82±0,31 mg/m3 và 0,31±0,14 mg/m3) thấp hơn TCCP. Nồng độ silic trong bụi giảm đáng kể. Sau 16 tháng can thiệp, một số nhóm bệnh của công nhân liên quan đến tiếp xúc thường xuyên với bụi đã giảm rõ rệt so với trước can thiệp và so với nhóm đối chứng P<0,05. Lắp đặt thêm hệ thống thông khí, hút bụi, khói hàn, hơi nóng và cải tiến quạt thông gió một pha, nhiều tốc độ tại xưởng sản xuất khuôn thép, giảm 1,4oC nhiệt độ không khí, tăng thêm tốc độ gió (0,4m/s), môi trường lao động thông thoáng và dễ chịu hơn. Sau 16 tháng can thiệp một số nhóm bệnh ở công nhân liên quan đến tiếp xúc với khói bụi và khói hàn, hơi khí độc và stress nhiệt đã giảm rõ rệt so với trước can thiệp. Kết luận: Người lao động đã nâng cao được kiến thức, thực hành về sức khỏe, dự phòng bệnh nghê nghiệp, môi trường lao động, các biện vệ sinh an toàn lao động tốt hơn như tỷ lệ công nhân mang mặc, sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động sau can thiệp tăng lên rõ rệt: đeo khẩu trang 96,09%/80,53%; đội mũ bảo hộ 97,07%/88,03%; mặc quần áo bảo hộ 100%/92,02%; đi giầy hoặc ủng hộ bảo hộ 80%/56,57%.
Vị trí tài liệu
Trung tâm Tích hợp dữ liệu |
CỤC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, BỘ Y TẾ
Ngõ 135 Núi Trúc, Ba Ðình, Hà Nội
Điện thoại: 04.3736.8315 (máy lẻ 12); Fax: 04.3736.8319
Email: hungnb.cntt@moh.gov.vn Website: yte.gov.vn
|