Tóm tắt
Đặt vấn đề: Phần lớn ung thư tuyến giáp tiến triển âm thầm, triệu chứng lâm sàng nghèo nàn, giai đoạn ẩn bệnh kéo dài. Bệnh nhân có thể sống 15-20 năm. Mục tiêu: Góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến giáp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu 293 bệnh nhân có bệnh lý tuyến giáp, được điều trị tại khoa Phẫu thuật lồng ngực – Bệnh viện 103 từ 2003-2008. Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: nhóm lành tính gồm 95 bệnh nhân, nhóm ác tính gồm 198 bệnh nhân. Nghiên cứu tiến hành theo phương pháp tiến cứu, mô tả, cắt ngang. Kết quả: Kết quả thống kê cho thấy thể ung thư tuyến giáp hay gặp nhất là ung thư tuyến giáp thể nhú (59,6%), thể nang (19,9%), thể tủy (9%)… Xét nghiệm vi thể tế bào học chọc hút bằng kim nhỏ trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp có: Se = 99,48%; Sp = 60%; PV(+) = 98,97%; PV (-) = 75%. A = 98,48%. Xét nghiệm siêu âm tuyến giáp cho phép xác định chính xác vị tri, kích thước và tính chất của khối u tuyến giáp (đặc, lỏng, hỗn hợp) nhưng không cho phép xác định bản chất của khối u (ác tính hay lành tính). Đa số (97,1%) ung thư tuyến giáp có u và 95% có từ 1-5 u; 97,4% các khối u tuyến giáp là u đặc và u hỗn hợp. Nồng độ T3 máu có thể sử dụng trong việc định hướng chẩn đoán phân biệt ung thư tuyến giáp với các bệnh tuyến giáp lành tính khác (P<0,001). Kết luận: Trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp, những xét nghiệm lâm sàng có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Ung thư tuyến giáp có thể gặp cả ở những bệnh nhân có cường hoặc nhược năng tuyến giáp. Siêu âm là phương pháp có khả năng phát hiện chính xác 100% một khối u là đặc hay lỏng.
Vị trí tài liệu
Trung tâm Tích hợp dữ liệu |
CỤC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, BỘ Y TẾ
Ngõ 135 Núi Trúc, Ba Ðình, Hà Nội
Điện thoại: 04.3736.8315 (máy lẻ 12); Fax: 04.3736.8319
Email: hungnb.cntt@moh.gov.vn Website: yte.gov.vn
|